Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp

|

Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp

Trong lĩnh vực nô;ng nghiệp, kinh tế tuần hoàn (KTTH) sẽ hình thành quá trình sản xuất khép kín, đưa nguồn phụ phẩm nô;ng nghiệp trở thành chất xúc tác hoặc tạo ra các sản phẩm có giá trị khác, làm gia tăng giá trị sản xuất nô;ng nghiệp, đáp ứng đảm bảo vệ sinh mô;i trường và phát triển nền nô;ng nghiệp bền vững thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh. Do đó, thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa việc triển khai các mô; hình KTTH trong nô;ng nghiệp để tiếp tục gia tăng chuỗi giá trị cho Ngành.

Phát triển kinh tế tuần hoàn trong nô;ng nghiệp

Nhiều năm trở lại đây, nô;ng nghiệp luô;n giữ vai trò “trụ đỡ” nền kinh tế nước ta, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, cung cấp nguồn nguyên liệu lớn cho ngành cô;ng nghiệp chế biến và xuất khẩu nô;ng, lâm, thủy sản. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2022, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,02% so với năm trước, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022 do nền kinh tế khô;i phục trở lại. Trong mức tăng của tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, khu vực nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,36%, đóng góp 5,11%. 6 tháng đầu năm 2023, GDP tăng 3,72%, chỉ cao hơn tốc độ tăng 1,74% của 6 tháng đầu năm 2020 trong giai đoạn 2011-2023. Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, khu vực nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,07%, đóng góp 9,28%.

Phát triển KTTH trong nô;ng nghiệp là quá trình sản xuất nô;ng nghiệp theo chu trình khép kín, thô;ng qua áp dụng tiến bộ kỹ thuật, cô;ng nghệ sinh học, cô;ng nghệ hóa lý chất thải và phế, phụ phẩm của quá trình này là đầu vào của quá trình sản xuất khác. Nhờ đó, sản xuất nô;ng nghiệp sẽ khai thác và sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, giảm thiểu sự lãng phí, thất thoát sau thu hoạch, tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao, đảm bảo về mô;i trường với việc giảm thiểu và tiến tới triệt tiêu chất thải gây ô; nhiễm mô;i trường, bảo vệ hệ sinh thái và sức khỏe con người.

Nhận thấy rõ lợi ích từ phát triển KTTH trong nô;ng nghiệp, Đảng, Nhà nước đã đề ra chủ trương, chính sách thực hiện KTTH như: Ngày 25/6/1998 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 36/CT-TW về tăng cường cô;ng tác bảo vệ mô;i trường trong thời kỳ cô;ng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 41-NQ/TW về bảo vệ mô;i trường trong thời kỳ đẩy mạnh cô;ng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (ngày 15/11/20024) đã chỉ rõ khuyến khích tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chế. Tiếp tục nhấn mạnh và để cụ thể hóa, ngày 3/6/2013, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 24/NQ-TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ mô;i trường… Tiếp đến là việc ban hành những chính sách thể hiện sự chuyển dịch theo hướng KTTH của Việt Nam trong lĩnh vực nô;ng nghiệp như: Chiến lược bảo vệ mô;i trường đến 2020, tầm nhìn 2030; Chiến lược Tăng trưởng xanh; Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn năm 2018 và cụ thể hơn là ngày 7/6/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 687/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam”.

Từ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiều năm qua, Bộ Nô;ng nghiệp và Phát triển nô;ng thô;n đã triển khai nhiều mô; hình chăn nuô;i, trồng trọt và thủy sản theo hướng bền vững, ứng dụng cô;ng nghệ cao, an toàn sinh học, trong đó có nô;ng nghiệp tuần hoàn. Điển hình như: Các mô; hình nuô;i cá - lúa, lúa - tô;m, ốc, cua hoặc chăn nuô;i kết hợp trồng cây ăn quả ở nhiều tỉnh phía Bắc và các mô; hình, giải pháp hướng tới sản xuất nô;ng nghiệp theo tiêu chí tuần hoàn bền vững được triển khai ở Đồng bằng sô;ng Cửu Long như: Áp dụng quy trình sản xuất lúa "3 giảm, 3 tăng", "1 phải, 5 giảm" trong sản xuất lúa; quản lý dịch hại tổng hợp IPM trên cây trồng.

Trên cơ sở thành cô;ng từ các mô; hình đã triển khai, ngành nô;ng nghiệp và các địa phương tăng cường hướng dẫn, khuyến khích nô;ng dân áp dụng một số quy trình cụ thể vào sản xuất. Hiện, các mô; hình KTTH trong nô;ng nghiệp đang được áp dụng như: Mô; hình tạo và dùng khí đốt từ nước thải, chất thải trong trồng trọt, chăn nuô;i; mô; hình kết hợp trồng trọt-chăn nuô;i -thủy sản, nô;ng-lâm kết hợp, vườn-rừng; mô; hình tuần hoàn lấy phụ phẩm trong nô;ng nghiệp làm chất xúc tác hay tạo ra các sản phẩm giá trị kinh tế khác... Trong đó, có thể kể đến những mô; hình đang triển khai đem lại hiệu quả như: Mô; hình vườn-ao-chuồng; mô; hình lúa-tô;m, lúa-cá. Mô; hình trồng lúa-trồng nấm-sản xuất phân hữu cơ-trồng cây ăn quả; mô; hình sản xuất phân hữu cơ từ chất thải nô;ng nghiệp; mô; hình sản xuất tổng hợp bò-trùn quế-cỏ, ngô;-gia súc, gia cầm-cá; mô; hình thủy sản với cô;ng nghệ tuần hoàn nước,…

Ngoài ra, ngành nô;ng nghiệp nhiều địa phương đã triển khai các chương trình hướng dẫn nô;ng dân tổ chức sản xuất có trách nhiệm với mô;i trường thô;ng qua việc tái sử dụng nguồn phụ phẩm, chất thải như một nguồn nguyên liệu cho chu kỳ sản xuất tiếp theo trong phát triển KTTH.

Thực tế hiện nay, nguồn phế phụ phẩm trong nô;ng nghiệp của nước ta rất lớn có thể sản xuất, chế biến ra nhiều sản phẩm có giá trị như: Phế phụ phẩm từ lúa có thể sản xuất ra phân bón sinh học, thức ăn chăn nuô;i, giá thể trồng nấm, đệm lót sinh học, đồ thủ cô;ng mỹ nghệ; Phụ phẩm từ tô;m sản xuất ra được chiết suất, thực phẩm, thức ăn chăn nuô;i, dầu tô;m, phân bón, năng lượng tái tạo; Phụ phẩm từ cá tra sản xuất ra được chiết xuất collagen, enzyme, phân bón, dầu cá, thức ăn chăn nuô;i, năng lượng tái tạo,…

Tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã hình thành một số mô; hình nô;ng nghiệp sử dụng phụ phẩm sản xuất theo quy trình nô;ng nghiệp tuần hoàn và mang lại hiệu quả cao như: Mô; hình vườn - ao - chuồng; mô; hình sản xuất phân hữu cơ từ chất thải nô;ng nghiệp; mô; hình sản xuất ủ phân bò - trùn quế - trồng cây; mô; hình trồng ngô; - gia súc... Một số HTX trên địa bàn tỉnh đã ứng dụng cô;ng nghệ sinh học xử lý chất thải rắn từ những phụ phẩm bỏ đi như: Cành, lá, vỏ các loại cây nhãn, xoài, chuối… để sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh dạng lỏng và rắn, bón lại cho cây trồng theo quy trình nô;ng nghiệp tuần hoàn.

Tại tỉnh Đồng Nai là thủ phủ chăn nuô;i của cả nước, áp dụng các mô; hình tuần hoàn trong chăn nuô;i từ việc sử dụng các chất thải làm phân bón, sử dụng đệm lót sinh học trong chăn nuô;i. Hiện, sản lượng phân hữu cơ từ phụ phẩm chăn nuô;i của tỉnh là khoảng 2 triệu tấn/năm.

Tại tỉnh Thái Bình, hợp tác xã rau sạch Trung An đã tăng năng suất 40% từ mô; hình liên kết gà - rau trong tận dụng phế phẩm chăn nuô;i cho trồng trọt thô;ng qua việc ứng dụng mô; hình trộn phân từ trang trại gà đẻ tại hộ dân.

Tập đoàn TH - doanh nghiệp nổi tiếng trong sản xuất sữa đang áp dụng mô; hình KTTH với các quy trình sản xuất tuần hoàn trong chuỗi sản xuất sữa. Theo đó, toàn bộ vật chất hữu cơ và phế phẩm hữu cơ từ trang trại chăn nuô;i được thu gom, xử lý thành chất đệm sinh học phục vụ trang trại và phân bón hữu cơ. Nước thải chăn nuô;i được sử dụng để cải tạo đất trồng trọt. Việc áp dụng quy trình sản xuất tuần hoàn đã góp phần thúc đẩy sự phát triển sản xuất, kinh doanh sữa của Tập đoàn, đồng thời, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ mô;i trường...

Có thể thấy, phát triển KTTH trong nô;ng nghiệp những năm qua đang đem lại nhiều giá trị gia tăng vào sản xuất nô;ng nghiệp, đồng thời góp phần giải bài toán khan hiếm nguồn tài nguyên, bảo vệ mô;i trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Ngành nô;ng nghiệp có nguồn phế phụ phẩm vô; cùng lớn, việc sử dụng hợp lý nguồn phụ phẩm này sẽ là nguồn tài nguyên để phát triển nô;ng nghiệp tuần hoàn trong thời gian tới. Theo các chuyên gia về nô;ng nghiệp, chỉ tính riêng ngành chế biến phụ phẩm thủy sản, năm 2020, ngành này mới chỉ đạt khoảng 275 triệu USD nhưng nếu khai thác hết nguồn phụ phẩm bằng cô;ng nghệ cao có thể thu về từ 4 tỷ đến 5 tỷ USD.

Chuyên gia cao cấp của Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) cho biết, Việt Nam mỗi năm có khoảng 40 triệu tấm rơm được tạo ra, trong khi nguồn rơm này có thể sử dụng vào nhiều ngành khác cho hiệu quả kinh tế cao như: Các mô; hình trồng nấm từ rơm cho lợi nhuận trung bình từ 50-100 USD/tấn; sử dụng rơm làm thức ăn cho bò có thể giảm 50% chi phí so với thức ăn sinh khối nhập khẩu. Nếu xử lý rơm rạ đúng cách sẽ giúp giảm đến 30% tổng phát thải carbon của toàn bộ vòng đời cây lúa... Điều này, giúp chuỗi lúa gạo Việt Nam ngày càng đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường cao cấp hơn và tiến tới các chứng nhận thương hiệu xanh, chứng chỉ sản xuất carbon thấp, hữu cơ…

Ngoài ra, cũng phải kể tới giá trị phụ phẩm từ lâm nghiệp. Đây cũng là một nguồn lực to lớn để ngành nô;ng nghiệp thúc đẩy phát triển KTTH. Thô;ng qua phụ phẩm từ lâm nghiệp làm viên nén sinh học cho lò sưởi và điện sinh khối để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường thế giới. Theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường viên nén sinh học toàn cầu đạt giá trị 10,49 tỷ USD (năm 2019), dự báo sẽ đạt 23,6 tỷ USD vào năm 2025.

Thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn trong nô;ng nghiệp

Phát triển KTTH mang lại những lợi ích khô;ng nhỏ, tuy nhiên, hiện nay, việc triển khai các mô; hình KTTH trong nô;ng nghiệp còn nhiều khó khăn, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế như: Các mô; hình tái chế và tận thu phế phụ phẩm trong nô;ng nghiệp còn chưa phát triển; việc đầu tư cho nghiên cứu và phát triển khoa học cô;ng nghệ cho phát triển KTTH trong các doanh nghiệp còn hạn chế; tỷ lệ khai thác và chuyển hoá nguồn lợi từ phụ phẩm vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ so với sản lượng thải ra.

Ngành nô;ng nghiệp có nguồn phế phụ phẩm vô; cùng lớn. Theo Bộ Nô;ng nghiệp và Phát triển nô;ng thô;n, hàng năm phần sinh khối phụ phẩm từ các cây trồng chính như lúa, ngô;, mía, rau các loại có thể cung cấp tương đương với khoảng 43,4 triệu tấn hữu cơ; 1,86 triệu tấn đạm urê; 1,68 triệu tấn supe lân đơn và 2,23 triệu tấn kali sulfat. Các phụ phẩm từ chế biến thủy sản có chứa hàm lượng dinh dưỡng rất cao, có thể chế biến sâu thành các sản phẩm thực phẩm cho người, thức ăn cho chăn nuô;i. Khối lượng phụ phẩm nô;ng nghiệp lên tới hàng trăm triệu tấn mỗi năm chính là nguồn bổ sung dinh dưỡng hữu cơ thay thế rất tốt cho phân bón hoá học trong việc cải tạo đất. Theo các chuyên gia, nếu tận dụng tốt toàn bộ khối lượng phế phẩm, sản xuất nô;ng nghiệp sẽ đạt giá trị rất lớn, tăng từ 30-100%.

Hướng tới phát triển nô;ng nghiệp bền vững, ngày 28/1/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 150/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược phát triển nô;ng nghiệp và nô;ng thô;n bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quan điểm chiến lược là phát triển nô;ng nghiệp hiệu quả, bền vững về kinh tế - xã hội - mô;i trường; Phát huy lợi thế, hiệu quả các nguồn lực (tài nguyên đất, nước, khô;ng khí, con người, truyền thống lịch sử, văn hóa) và khoa học cô;ng nghệ, đổi mới sáng tạo; Chuyển từ tư duy sản xuất nô;ng nghiệp sang tư duy kinh tế nô;ng nghiệp, sản xuất sản phẩm có giá trị cao, đa dạng theo chuỗi giá trị phù hợp với yêu cầu của thị trường, tích hợp các giá trị văn hóa, xã hội và mô;i trường vào sản phẩm; Sản xuất nô;ng nghiệp có trách nhiệm, hiện đại, hiệu quả và bền vững; phát triển nô;ng nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, phát thải các-bon thấp, thân thiện với mô;i trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Mục tiêu cụ thể đến năm 2030; Tốc độ tăng trưởng GDP nô;ng, lâm, thủy sản đạt bình quân từ 2,5 - 3%/năm, tốc độ tăng năng suất lao động nô;ng, lâm, thủy sản đạt bình quân từ 5,5 - 6%/năm; Phát triển nền nô;ng nghiệp xanh, thân thiện với mô;i trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm ô; nhiễm mô;i trường nô;ng thô;n, phấn đấu giảm phát thải khí nhà kính 10% so với năm 2020; Tỷ lệ che phủ rừng duy trì ổn định ở mức 42%, diện tích rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững đạt trên 1 triệu ha... Tầm nhìn đến năm 2050, phấn đấu Việt Nam trở thành một trong những nước có nền nô;ng nghiệp hàng đầu thế giới với ngành cô;ng nghiệp chế biến nô;ng sản hiện đại, hiệu quả, thân thiện với mô;i trường. Nô;ng thô;n khô;ng còn hộ nghèo và trở thành “nơi đáng sống”, văn minh, xanh, sạch, đẹp với điều kiện sống, thu nhập dân cư nô;ng thô;n tiệm cận và kết nối chặt chẽ, hài hoà với đô; thị.

Như vậy, để thúc đẩy phát triển KTTH trong nô;ng nghiệp thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp như:

Một là, cần tuyên truyền, giới thiệu và nhân rộng các mô; hình hay, hiệu quả về KTTH trong nô;ng nghiệp. Từ đó, nhân rộng, lan tỏa, tạo cơ hội phát triển thêm các mô; hình mới trong phát triển KTTH nô;ng nghiệp.

Hai là, tạo động lực để các địa phương, doanh nghiệp, người nô;ng dân đầu tư vào nô;ng nghiệp tuần hoàn. Hỗ trợ về vốn, cô;ng nghệ, thị trường; hướng dẫn doanh nghiệp, nô;ng dân thực hiện sản xuất nô;ng nghiệp theo chuỗi giá trị. Khuyến khích các doanh nghiệp, tập đoàn có tiềm lực lớn đầu tư khai thác, chế biến phụ phế phẩm nô;ng nghiệp...

Ba là, nâng cao năng lực tái chế, tái sử dụng phụ, phế phẩm nô;ng nghiệp thô;ng qua đào tạo, bồi dưỡng nhân lực; Đầu tư nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật trong xử lý phế phẩm nô;ng nghiệp, nhất là ở các địa phương có diện tích trồng trọt và chăn nuô;i quy mô; lớn. Khuyến khích các địa phương trên cả nước, dựa vào các mô; hình đã có và điều kiện cụ thể của mình phát triển các mô; hình KTTH trong nô;ng nghiệp cho phù hợp. Đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp với nô;ng dân.

Bốn là, tiếp tục nâng cao nhận thức của người sản xuất, doanh nghiệp… trong phát triển KTTH. Đồng thời, xây dựng chương trình và tổ chức các lớp tập huấn nâng cao cho các cán bộ nghiên cứu, các đơn vị sản xuất kinh doanh về các mô; hình ứng dụng, chuyển giao cô;ng nghệ xử lý chất thải, phế, phụ phẩm trong nô;ng nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác trong nước và quốc tế về tổ chức đào tạo, tăng cường năng lực cho cán bộ và doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu./.

Trang Nguyễn


Ứng dụng giải trí máy đánh bạc