Giai đoạn 2016-2020, lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản Việt Nam tiếp tục thể hiện vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế, là nền tảng cho ổn định đời sống xã hội. Một số chỉ tiêu chủ yếu của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giai đoạn 2016-2020 đạt và vượt mục tiêu đề ra, nổi bật là: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành bình quân đạt 2,54%/năm; tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 138,7 tỷ USD, riêng năm 2020 đạt 28,7 tỷ USD; tỷ lệ che phủ rừng năm 2020 đạt 42%; hết năm 2020 có 62% xã đạt chuẩn nông thôn mới; thu nhập của cư dân nông thôn năm 2020 bình quân đạt 41,8 triệu đồng/người… Trong đó, sản xuất nông nghiệp với nhiều chuyển biến tích cực đã góp phâ??n không nhỏ trong sự phát triển chung của toàn ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm dâ??n tỷ trọng nông nghiệp, tăng dâ??n tỷ trọng lâm nghiệp và thủy sản.
Chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm dâ??n tỷ trọng nông nghiệp, tăng dâ??n tỷ trọng lâm nghiệp và thủy sản.
Sô?? liê??u của Tô??ng cục Thô??ng kê cho thâ??y, tăng trưởng của khu vực nông, lâm nghiê??p và thủy sản năm 2020 so với năm 2015 đạt 13,4%, trong đó ngành nông nghiê??p tuy đạt mức tăng 9,1% nhưng đóng góp cao nhâ??t tới 7 điểm phần trăm vào mức tăng tô??ng giá trị tăng thêm của khu vực I; ngành lâm nghiê??p tăng cao nhâ??t với 27,7% nhưng chiếm tỷ trọng thâ??p nên chỉ đóng góp 1,2 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng trưởng khá ở mức 26,6%, đóng góp 5,2 điểm phần trăm.
Giai đoạn 2016-2020, giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiê??p và thủy sản chiếm từ 14-16% trong GDP, bình quân tăng 2,54%/năm, trong đó nông nghiê??p tăng 1,8%/năm, đóng góp 1,32 điểm phần trăm vào mức tăng chung cả khu vực; lâm nghiê??p tăng 5%/năm, đóng góp 0,22 điểm phần trăm và thủy sản tăng 4,8%/năm, đóng góp 1 điểm phần trăm.
Giai đoạn 2016-2020, giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiê??p và thủy sản chiếm từ 14-16% trong GDP, bình quân tăng 2,54%/năm, trong đó nông nghiê??p tăng 1,8%/năm, đóng góp 1,32 điểm phần trăm vào mức tăng chung cả khu vực; lâm nghiê??p tăng 5%/năm, đóng góp 0,22 điểm phần trăm và thủy sản tăng 4,8%/năm, đóng góp 1 điểm phần trăm.
Nhìn chung, trong nội bộ ngành nông, lâm nghiê??p và thủy sản có sự chuyển dịch cơ câ??u từ nông nghiê??p sang lâm nghiê??p và thủy sản theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiê??p, tăng dần tỷ trọng lâm nghiê??pvà thủy sản. Cơ câ??u giá trị tăng thêm ngành nông nghiê??p cả nước trong giá trị tăng thêm nông, lâm nghiê??p và thủy sản giảm 2,1 điểm phần trăm từ 74,9% năm 2015 xuô??ng 72,8% năm 2020, đồng thời lâm nghiê??p tăng 0,5 điểm phần trăm, từ 4,3% năm 2015 lên 4,8% năm 2020 và thủy sản tăng 1,6 điểm phần trăm từ 20,8% năm
2015 lên 22,4% năm 2020.
Sản xuất nông nghiệp có nhiều chuyển biến rõ nét, hướng đến nâng cao chất lượng và hiệu quả sản phẩm
Sản xuất nông nghiệp có nhiều chuyển biến rõ nét, hướng đến nâng cao chất lượng và hiệu quả sản phẩm
Năm 2018, diê??n tích đâ??t sản xuâ??t nông nghiê??p là 11.498,5 nghìn ha, giảm 31,7 nghìn ha so với năm 2015. Trong đó, đâ??t trồng cây hàng năm đạt 6.952.1 nghìn ha, giảm 45,9 nghìn ha (đâ??t trồng lúa giảm 22,6 nghìn ha và đâ??t trồng cây hàng năm khác giảm 23,3 nghìn ha). Đâ??t trồng cây lâu năm là 4.546,4 nghìn ha, tăng 14,2 nghìn ha. Ước tính năm 2020, diê??n tích trồng cây hàng năm đạt 10.873,1 nghìn ha, giảm 7,2% so với năm 2015, diê??n tích trồng cây lâu năm đạt 3.607,8 nghìn ha, tăng 11,2%.
Diê??n tích gieo trồng cây lương thực có hạt có xu hướng giảm dần qua các năm, ước tính năm 2020 đạt 8.222 nghìn ha, giảm 8,7% so với năm 2015 do chuyển đô??i mục đích sử dụng đâ??t, chuyển đô??i cơ câ??u sản xuâ??t, thiếu lao động nông nghiê??p. Trong đó, diê??n tích đâ??t lúa tiếp tục giảm do yêu cầu của công nghiê??p hóa, đô thị hóa, phát triển cơ sở hạ tầng. Năm 2020, diê??n tích trồng lúa ước tính đạt 7.277,8 nghìn ha (chiếm 88,5% tô??ng diê??n tích gieo trồng cây lương thực), giảm 7,3% so với năm 2015, trong đó diê??n tích gieo trồng lúa giảm ở tâ??t cả các mùa vụ: Lúa vụ đông xuân đạt 3.024,1 nghìn ha giảm 4,5%; lúa hè thu và thu đông 2.669,1 nghìn ha, giảm 7,6%; lúa mùa 1.584,6 nghìn ha, giảm 7,6%; diê??n tích ngô đạt 943,8 nghìn ha, giảm 18,5%. Bình quân mỗi năm giai đoạn 2016-2020, diê??n tích cây lương thực có hạt giảm 1,8%/năm, trong đó diê??n tích lúa giảm 1,4%/năm, diê??n tích ngô giảm 4,4%/năm.
Diê??n tích gieo trồng cây lương thực có hạt có xu hướng giảm dần qua các năm, ước tính năm 2020 đạt 8.222 nghìn ha, giảm 8,7% so với năm 2015 do chuyển đô??i mục đích sử dụng đâ??t, chuyển đô??i cơ câ??u sản xuâ??t, thiếu lao động nông nghiê??p. Trong đó, diê??n tích đâ??t lúa tiếp tục giảm do yêu cầu của công nghiê??p hóa, đô thị hóa, phát triển cơ sở hạ tầng. Năm 2020, diê??n tích trồng lúa ước tính đạt 7.277,8 nghìn ha (chiếm 88,5% tô??ng diê??n tích gieo trồng cây lương thực), giảm 7,3% so với năm 2015, trong đó diê??n tích gieo trồng lúa giảm ở tâ??t cả các mùa vụ: Lúa vụ đông xuân đạt 3.024,1 nghìn ha giảm 4,5%; lúa hè thu và thu đông 2.669,1 nghìn ha, giảm 7,6%; lúa mùa 1.584,6 nghìn ha, giảm 7,6%; diê??n tích ngô đạt 943,8 nghìn ha, giảm 18,5%. Bình quân mỗi năm giai đoạn 2016-2020, diê??n tích cây lương thực có hạt giảm 1,8%/năm, trong đó diê??n tích lúa giảm 1,4%/năm, diê??n tích ngô giảm 4,4%/năm.
Ảnh minh họa
Do diê??n tích gieo trồng ngày càng bị thu hẹp nên sản lượng qua các năm giảm. Sản lượng lương thực có hạt năm 2020 ước tính đạt 47,28 triê??u tâ??n, giảm 6,1% so với năm 2015, trong đó lúa đạt 42,69 triê??u tâ??n, giảm 5,3%, ngô đạt 4,6 triê??u tâ??n, giảm 13,2%. Tính chung giai đoạn 2016-2020, sản lượng lương thực có hạt đạt 240,68 triê??u tâ??n, giảm 2,1% so với sản lượng lương thực có hạt giai đoạn 2011-2015, bình quân mỗi năm giảm 1,3% (trong đó sản lượng lúa đạt 216,08 triê??u tâ??n, bình quân giảm 1,1%/năm; sản lượng ngô đạt 24,58 triê??u tâ??n, bình quân giảm 2,8%/năm).
Tuy diê??n tích gieo trồng lúa giảm nhưng các địa phương đã tập trung vào triển khai thực hiê??n đồng bộ các giải pháp phòng trừ dịch hại tô??ng hợp, kết hợp trồng hoa trên bờ ruộng, xây dựng các vùng sản xuâ??t hàng hóa lớn bền vững đảm bảo an toàn thực phẩm...; tiếp tục tăng tỷ lê?? sử dụng giô??ng lúa châ??t lượng cao và từng bước nâng cao giá trị “Thương hiê??u hạt gạo Viê??t” từ thành công của các chuỗi sản xuâ??t lúa gạo khép kín gắn với xây dựng thương hiê??u.
Bên cạnh đó, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuâ??t, gieo câ??y loại giô??ng lúa châ??t lượng cao thay thế giô??ng lúa truyền thô??ng và chủ động ứng phó với biến đô??i khí hậu nên năng suâ??t lúa tăng qua các năm. Năng suâ??t lúa năm 2015 là 57,6 tạ/ha thì đến năm 2020 ước tính đạt 58,7 tạ/ha, tăng 1,1 tạ/ha. Cùng với đó, nhiều giô??ng ngô châ??t lượng và năng suâ??t cao được đưa vào sản xuâ??t, nhờ vậy năng suâ??t ngô liên tục tăng từ 44,8 tạ/ha năm 2015 lên 48,7 tạ/ha năm 2020, tăng 3,9 tạ/ha.
Trong lĩnh vực trồng trọt, chú trọng chuyển đô??i cơ câ??u cây trồng theo hướng nâng cao châ??t lượng và hiê??u quả, thông qua viê??c giảm diê??n tích cây trồng hàng năm không hiê??u quả sang cây trồng khác cho giá trị kinh tế cao hơn, như chuyển đô??i diê??n tích trồng lúa bị hạn hán hoặc nhiễm mặn sang trồng cây ăn quả, loại bỏ những cây trồng lâu năm đã già cỗi để tập trung vào cây cho năng suâ??t cao.
Nếu như năm 2015, diê??n tích cây hàng năm chiếm 78,3% tô??ng diê??n tích cây trồng các loại, cây lâu năm chiếm 21,7%, trong đó cây ăn quả chiếm 5,5% thì đến năm 2020 diê??n tích cây hàng năm giảm xuô??ng còn 75,1% và diê??n tích cây lâu năm tăng lên là 24,9%, trong đó cây ăn quả đạt 7,8%. Tuy nhiên, diê??n tích cây công nghiê??p lâu năm không ô??n định qua các năm do biến động giá và một phần diê??n tích già cỗi cần phải trồng tái canh. Đến năm 2020, diê??n tích trồng cây cao su đạt 926 nghìn ha, giảm 59,6 nghìn ha so với năm 2015; cà phê đạt 695,5 nghìn ha, tăng 52,2 nghìn ha; diê??n tích hồ tiêu tăng mạnh vào các năm 2017, 2018, cao nhâ??t đạt trên 150 nghìn ha, sau đó do giá giảm và không ô??n định nên đến năm 2020 còn 131,8 nghìn ha, tăng 30,2 nghìn ha; cây điều đạt 302,5 nghìn ha, cao hơn 12,1 nghìn ha; chè đạt 124 nghìn ha, giảm 9,6 nghìn ha. Năm 2020, diê??n tích cây ăn quả dự kiến đạt 1,13 triê??u ha, tăng 309,4 nghìn ha, bình quân mỗi năm giai đoạn 2016-2020 tăng 61,9 nghìn ha. Tính chung 5 năm 2016-2020, diê??n tích trồng cây lâu năm tăng bình quân 2,1%/năm nhưng vẫn thâ??p hơn mức tăng 2,7%/năm của giai đoạn 2011-2015, trong đó cây công nghiê??p tăng 0,2%/năm, cây ăn quả tăng 6,6%/năm.
Nhờ những chuyển đô??i theo hướng tích cực, sản phẩm cây ăn quả của Viê??t Nam đã không những chiếm lĩnh thị trường trong nước mà còn vươn ra thị trường nước ngoài chinh phục những thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Ốt-xtrây-lia, Niu-di-lân, Thái Lan. Một sô?? sản phẩm trái cây Viê??t đã“xuâ??t ngoại” thành công như: Thanh Long, Xoài, Nhãn, Vải, Vú sữa…
Tuy diê??n tích gieo trồng lúa giảm nhưng các địa phương đã tập trung vào triển khai thực hiê??n đồng bộ các giải pháp phòng trừ dịch hại tô??ng hợp, kết hợp trồng hoa trên bờ ruộng, xây dựng các vùng sản xuâ??t hàng hóa lớn bền vững đảm bảo an toàn thực phẩm...; tiếp tục tăng tỷ lê?? sử dụng giô??ng lúa châ??t lượng cao và từng bước nâng cao giá trị “Thương hiê??u hạt gạo Viê??t” từ thành công của các chuỗi sản xuâ??t lúa gạo khép kín gắn với xây dựng thương hiê??u.
Bên cạnh đó, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuâ??t, gieo câ??y loại giô??ng lúa châ??t lượng cao thay thế giô??ng lúa truyền thô??ng và chủ động ứng phó với biến đô??i khí hậu nên năng suâ??t lúa tăng qua các năm. Năng suâ??t lúa năm 2015 là 57,6 tạ/ha thì đến năm 2020 ước tính đạt 58,7 tạ/ha, tăng 1,1 tạ/ha. Cùng với đó, nhiều giô??ng ngô châ??t lượng và năng suâ??t cao được đưa vào sản xuâ??t, nhờ vậy năng suâ??t ngô liên tục tăng từ 44,8 tạ/ha năm 2015 lên 48,7 tạ/ha năm 2020, tăng 3,9 tạ/ha.
Trong lĩnh vực trồng trọt, chú trọng chuyển đô??i cơ câ??u cây trồng theo hướng nâng cao châ??t lượng và hiê??u quả, thông qua viê??c giảm diê??n tích cây trồng hàng năm không hiê??u quả sang cây trồng khác cho giá trị kinh tế cao hơn, như chuyển đô??i diê??n tích trồng lúa bị hạn hán hoặc nhiễm mặn sang trồng cây ăn quả, loại bỏ những cây trồng lâu năm đã già cỗi để tập trung vào cây cho năng suâ??t cao.
Nếu như năm 2015, diê??n tích cây hàng năm chiếm 78,3% tô??ng diê??n tích cây trồng các loại, cây lâu năm chiếm 21,7%, trong đó cây ăn quả chiếm 5,5% thì đến năm 2020 diê??n tích cây hàng năm giảm xuô??ng còn 75,1% và diê??n tích cây lâu năm tăng lên là 24,9%, trong đó cây ăn quả đạt 7,8%. Tuy nhiên, diê??n tích cây công nghiê??p lâu năm không ô??n định qua các năm do biến động giá và một phần diê??n tích già cỗi cần phải trồng tái canh. Đến năm 2020, diê??n tích trồng cây cao su đạt 926 nghìn ha, giảm 59,6 nghìn ha so với năm 2015; cà phê đạt 695,5 nghìn ha, tăng 52,2 nghìn ha; diê??n tích hồ tiêu tăng mạnh vào các năm 2017, 2018, cao nhâ??t đạt trên 150 nghìn ha, sau đó do giá giảm và không ô??n định nên đến năm 2020 còn 131,8 nghìn ha, tăng 30,2 nghìn ha; cây điều đạt 302,5 nghìn ha, cao hơn 12,1 nghìn ha; chè đạt 124 nghìn ha, giảm 9,6 nghìn ha. Năm 2020, diê??n tích cây ăn quả dự kiến đạt 1,13 triê??u ha, tăng 309,4 nghìn ha, bình quân mỗi năm giai đoạn 2016-2020 tăng 61,9 nghìn ha. Tính chung 5 năm 2016-2020, diê??n tích trồng cây lâu năm tăng bình quân 2,1%/năm nhưng vẫn thâ??p hơn mức tăng 2,7%/năm của giai đoạn 2011-2015, trong đó cây công nghiê??p tăng 0,2%/năm, cây ăn quả tăng 6,6%/năm.
Nhờ những chuyển đô??i theo hướng tích cực, sản phẩm cây ăn quả của Viê??t Nam đã không những chiếm lĩnh thị trường trong nước mà còn vươn ra thị trường nước ngoài chinh phục những thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Ốt-xtrây-lia, Niu-di-lân, Thái Lan. Một sô?? sản phẩm trái cây Viê??t đã“xuâ??t ngoại” thành công như: Thanh Long, Xoài, Nhãn, Vải, Vú sữa…
Chăn nuôi hướng đến sản xuất quy mô lớn, đẩy mạnh áp dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến
Những đánh giá chung cho thâ??y, hoạt động chăn nuôi giai đoạn vừa qua đã có những chuyển biến tích cực từ nông hộ quy mô nhỏ sang chăn nuôi gia trại, trang trại, chăn nuôi hộ theo hình thức công nghiê??p quy mô lớn, áp dụng kỹ thuật và công nghê?? tiên tiến; khuyến khích chăn nuôi theo hướng hữu cơ, xây dựng vùng chăn nuôi an toàn để kiểm soát dịch bê??nh; chế biến sâu và phát triển thị trường sản phẩm chăn nuôi công nghiê??p, đồng thời, chú trọng châ??t lượng, hiê??u quả và giá trị gia tăng để liên kết doanh nghiê??p với các hộ chăn nuôi và tô?? chức sản xuâ??t nhằm tạo điều kiê??n tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Ước tính đến năm 2020, đàn bò đạt 6,21 triê??u con, tăng 15,7% so với năm 2015, bình quân mỗi năm giai đoạn 2016-2020 tăng 3%; đàn trâu có xu hướng giảm do hiê??u quả kinh tế không cao và diê??n tích chăn thả bị thu hẹp, đạt 2,33 triê??u con, giảm 188,6 nghìn con so với năm 2015, bình quân mỗi năm giảm 1,5%. Đàn gia cầm cả nước nhìn chung phát triển tô??t, không có dịch bê??nh lớn xảy ra. Khi tình hình dịch bê??nh ở lợn diễn biến phức tạp, nhu cầu tiêu thụ thịt gia cầm và trứng tăng mạnh do người dân đã chuyển sang sử dụng thịt gia cầm và các loại trứng nhiều hơn. Người chăn nuôi gia cầm cũng yên tâm mở rộng quy mô đàn. Các yếu tô?? này đã khiến tô??ng đàn gia cầm và sản lượng thịt gia cầm, sản lượng trứng gia cầm có xu hướng tăng cao. Ước tính năm 2020, tô??ng đàn gia cầm đạt gần 510 triê??u con, tăng 49,2% so với năm 2015; bình quân mỗi năm tăng 8,3%.
Trong giai đoạn 2016-2020, ngành chăn nuôi lợn đã phải đô??i mặt với cơn khủng hoảng lớn khi dịch tả lợn châu Phi xuâ??t hiê??n và lan rộng. Sau khi ô?? dịch đầu tiên được phát hiê??n tại miền Bắc từ tháng 2/2019, đến tháng 9/2019 dịch đã lan rộng khắp cả 63 tỉnh, thành phô??. Tô??ng đàn lợn cả nước đã sụt giảm mạnh so với năm 2015, do đó sản lượng thịt lợn hơi xuâ??t chuồng cũng giảm sâu. Tô??ng đàn lợn của cả nước năm 2020 là 22,95 triê??u con, giảm 17,3% so với năm 2015; bình quân mỗi năm giảm 3,7%. Dự tính sản lượng thịt hơi các loại năm 2020 đạt 5,4 triê??u tâ??n, tăng hơn các năm trước đó, nhâ??t là so với năm 2019 tăng tới 315 nghìn tâ??n. Sản lượng sữa tươi tăng qua các năm, năm 2020 ước tính đạt 1,09 triê??u tâ??n, tăng 10,2% so với năm 2015. Sản lượng trứng cũng tăng qua các năm, năm 2020 ước tính đạt 14.690 triê??u quả, tăng 5.815,7 triê??u quả so với năm 2015.
Ước tính đến năm 2020, đàn bò đạt 6,21 triê??u con, tăng 15,7% so với năm 2015, bình quân mỗi năm giai đoạn 2016-2020 tăng 3%; đàn trâu có xu hướng giảm do hiê??u quả kinh tế không cao và diê??n tích chăn thả bị thu hẹp, đạt 2,33 triê??u con, giảm 188,6 nghìn con so với năm 2015, bình quân mỗi năm giảm 1,5%. Đàn gia cầm cả nước nhìn chung phát triển tô??t, không có dịch bê??nh lớn xảy ra. Khi tình hình dịch bê??nh ở lợn diễn biến phức tạp, nhu cầu tiêu thụ thịt gia cầm và trứng tăng mạnh do người dân đã chuyển sang sử dụng thịt gia cầm và các loại trứng nhiều hơn. Người chăn nuôi gia cầm cũng yên tâm mở rộng quy mô đàn. Các yếu tô?? này đã khiến tô??ng đàn gia cầm và sản lượng thịt gia cầm, sản lượng trứng gia cầm có xu hướng tăng cao. Ước tính năm 2020, tô??ng đàn gia cầm đạt gần 510 triê??u con, tăng 49,2% so với năm 2015; bình quân mỗi năm tăng 8,3%.
Trong giai đoạn 2016-2020, ngành chăn nuôi lợn đã phải đô??i mặt với cơn khủng hoảng lớn khi dịch tả lợn châu Phi xuâ??t hiê??n và lan rộng. Sau khi ô?? dịch đầu tiên được phát hiê??n tại miền Bắc từ tháng 2/2019, đến tháng 9/2019 dịch đã lan rộng khắp cả 63 tỉnh, thành phô??. Tô??ng đàn lợn cả nước đã sụt giảm mạnh so với năm 2015, do đó sản lượng thịt lợn hơi xuâ??t chuồng cũng giảm sâu. Tô??ng đàn lợn của cả nước năm 2020 là 22,95 triê??u con, giảm 17,3% so với năm 2015; bình quân mỗi năm giảm 3,7%. Dự tính sản lượng thịt hơi các loại năm 2020 đạt 5,4 triê??u tâ??n, tăng hơn các năm trước đó, nhâ??t là so với năm 2019 tăng tới 315 nghìn tâ??n. Sản lượng sữa tươi tăng qua các năm, năm 2020 ước tính đạt 1,09 triê??u tâ??n, tăng 10,2% so với năm 2015. Sản lượng trứng cũng tăng qua các năm, năm 2020 ước tính đạt 14.690 triê??u quả, tăng 5.815,7 triê??u quả so với năm 2015.
Lao động trong ngành nông nghiệp có xu hướng giảm rõ rệt, ngược lại năng suất lao động có xu hướng tăng với tốc độ nhanh
Ngoài ra, theo đánh giá, ngành nông nghiê??p, lâm nghiê??p và thủy sản thu hút một lực lượng lao động râ??t lớn, thu hút khoảng 34-42% lực lượng lao động trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hiê??n nay cơ câ??u lao động hoạt động trong ngành này có xu hướng giảm do lao động chuyển sang hoạt động trong các ngành phi nông nghiê??p, lâm nghiê??p và thủy sản. Năm 2020, lao động từ 15 tuô??i trở lên đang làm viê??c trong ngành nông nghiê??p, lâm nghiê??p và thủy sản là 17,5 triê??u người, giảm 24,3% so với năm 2015. Lực lượng lao động trong ngành này chiếm 32,8% tô??ng sô?? lao động cả nước năm 2020, giảm 10,8 điểm phần trăm so với năm 2015. Năng suâ??t lao động xã hội (Tô??ng sản phẩm trong nước theo giá hiê??n hành bình quân 1 lao động 15 tuô??i trở lên đang làm viê??c) có xu hướng tăng với tô??c độ khá nhanh qua các năm, năm 2019 là 117,9 triê??u đồng/lao động, tăng 49,4% so với năm 2015, trong đó khu vực nông, lâm nghiê??p và thủy sản đạt 53,5 triê??u đồng/lao động, tăng tới 73,7%.
Giai đoạn từ 2016-2020, nhờ triển khai có hiê??u quả Đề án Tái cơ câ??u ngành, chuyển đô??i theo kế hoạch diê??n tích đâ??t lúa kém hiê??u quả và chủ động chuyển đô??i diê??n tích gieo trồng lúa hàng năm không cân đô??i được nguồn nước sang trồng rau, màu, cây ăn quả...; những sản phẩm đang có thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước và giá trị thu được cao hơn trồng lúa; Các địa phương đã khuyến khích, hỗ trợ các tô?? chức, cá nhân, doanh nghiê??p đầu tư phát triển công nghiê??p chế biến, công nghê?? bảo quản để gia tăng giá trị... Nhờ đó, hiê??u quả sản xuâ??t trên 1 đơn vị diê??n tích không ngừng tăng lên qua các năm, giá trị sản phẩm trên 1 ha đâ??t trồng trọt tăng từ 82,6 triê??u đồng/ha năm 2015 lên 97,1 triê??u đồng/ha năm 2019...
Có thể thâ??y, giai đoạn 2016-2020, hoạt động sản xuâ??t nông nghiê??p Viê??t Nam đã từng bước hội nhậpsâu rộng hơn, nông sản của Viê??t Nam đã nhanh chóng tiếp cận và kết nô??i với các thị trường giàu tiềm năng và có yêu cầu cao như Mỹ, EU, Nhật Bản... Trong những năm tiếp theo, ngành Nông nghiê??p tiếp tục phải đô??i mặt với nhiều thách thức như: Diễn biến ngày càng phức tạp của biến đô??i khí hậu, dịch bê??nh và xu hướng hội nhập trên tâ??t cả các lĩnh vực đời sô??ng, kinh tế của các nước trên thế giới, song đây cũng là cơ hội để ngành nông nghiê??p Viê??t Nam tiếp tục vươn lên và trưởng thành. Để duy trì đà tăng trưởng, sản xuâ??t nông nghiê??p cần từng bước nâng cao châ??t lượng nông sản, đảm bảo an toàn thực phẩm, truy xuâ??t nguồn gô??c, ô??n định sản xuâ??t, điều chỉnh cơ câ??u mùa vụ, diê??n tích gieo trồng phù hợp nhằm hạn chế thâ??p nhâ??t tác động của biến đô??i khí hậu,... Đô??i với hoạt động chăn nuôi cần tập trung triển khai thực hiê??n các nhiê??m vụ trọng tâm về công tác chỉ đạo tái đàn, tăng đàn lợn, đáp ứng đủ nguồn cung con giô??ng cho nhu cầu sản xuâ??t nhằm tăng nguồn cung lợn thịt, góp phần giảm giá sản phẩm và ô??n định thị trường. Đồng thời, triển khai chăn nuôi an toàn sinh học kết hợp với tăng cường phòng, chô??ng dịch bê??nh trên đàn gia súc, gia cầm,... Bên cạnh đó, cần thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghê??, nâng cao châ??t lượng nguồn nhân lực cho hoạt động sản xuâ??t nông nghiê??p... Đây sẽ là nền tảng và là động lực để ngành nông nghiê??p Viê??t Nam tiếp tục hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiê??p trong giai đoạn mới, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của kinh tế đâ??t nước./.
Giai đoạn từ 2016-2020, nhờ triển khai có hiê??u quả Đề án Tái cơ câ??u ngành, chuyển đô??i theo kế hoạch diê??n tích đâ??t lúa kém hiê??u quả và chủ động chuyển đô??i diê??n tích gieo trồng lúa hàng năm không cân đô??i được nguồn nước sang trồng rau, màu, cây ăn quả...; những sản phẩm đang có thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước và giá trị thu được cao hơn trồng lúa; Các địa phương đã khuyến khích, hỗ trợ các tô?? chức, cá nhân, doanh nghiê??p đầu tư phát triển công nghiê??p chế biến, công nghê?? bảo quản để gia tăng giá trị... Nhờ đó, hiê??u quả sản xuâ??t trên 1 đơn vị diê??n tích không ngừng tăng lên qua các năm, giá trị sản phẩm trên 1 ha đâ??t trồng trọt tăng từ 82,6 triê??u đồng/ha năm 2015 lên 97,1 triê??u đồng/ha năm 2019...
Có thể thâ??y, giai đoạn 2016-2020, hoạt động sản xuâ??t nông nghiê??p Viê??t Nam đã từng bước hội nhậpsâu rộng hơn, nông sản của Viê??t Nam đã nhanh chóng tiếp cận và kết nô??i với các thị trường giàu tiềm năng và có yêu cầu cao như Mỹ, EU, Nhật Bản... Trong những năm tiếp theo, ngành Nông nghiê??p tiếp tục phải đô??i mặt với nhiều thách thức như: Diễn biến ngày càng phức tạp của biến đô??i khí hậu, dịch bê??nh và xu hướng hội nhập trên tâ??t cả các lĩnh vực đời sô??ng, kinh tế của các nước trên thế giới, song đây cũng là cơ hội để ngành nông nghiê??p Viê??t Nam tiếp tục vươn lên và trưởng thành. Để duy trì đà tăng trưởng, sản xuâ??t nông nghiê??p cần từng bước nâng cao châ??t lượng nông sản, đảm bảo an toàn thực phẩm, truy xuâ??t nguồn gô??c, ô??n định sản xuâ??t, điều chỉnh cơ câ??u mùa vụ, diê??n tích gieo trồng phù hợp nhằm hạn chế thâ??p nhâ??t tác động của biến đô??i khí hậu,... Đô??i với hoạt động chăn nuôi cần tập trung triển khai thực hiê??n các nhiê??m vụ trọng tâm về công tác chỉ đạo tái đàn, tăng đàn lợn, đáp ứng đủ nguồn cung con giô??ng cho nhu cầu sản xuâ??t nhằm tăng nguồn cung lợn thịt, góp phần giảm giá sản phẩm và ô??n định thị trường. Đồng thời, triển khai chăn nuôi an toàn sinh học kết hợp với tăng cường phòng, chô??ng dịch bê??nh trên đàn gia súc, gia cầm,... Bên cạnh đó, cần thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghê??, nâng cao châ??t lượng nguồn nhân lực cho hoạt động sản xuâ??t nông nghiê??p... Đây sẽ là nền tảng và là động lực để ngành nông nghiê??p Viê??t Nam tiếp tục hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiê??p trong giai đoạn mới, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của kinh tế đâ??t nước./.
Trần Thị Thu Trang
Vụ Thô??ng kê Tô??ng hợp và Phô?? biê??n thông tin thô??ng kê - TCTK
Vụ Thô??ng kê Tô??ng hợp và Phô?? biê??n thông tin thô??ng kê - TCTK
ỨNG DỤNG Giải trí Xổ số GW